Thứ Tư, 31 tháng 7, 2019

LÒNG TIN MẤT! Thơ. Lê Trường Hưởng

Hoạt động vô pháp của Trung Quốc ở khu vực bãi Tư Chính: Phá hủy lòng tin của quốc tế

LÒNG TIN MẤT!

Chà đạp cả lên Luật Pháp rồi!
Ngang nhiên trắng trợn quá đi thôi!
Trường Sa hùng hổ mong xâm chiếm
Tư Chính hung hăng muốn nuốt trôi
Luật Biển 82  không chấp nhận
Yêu cầu Quốc tế chẳng nghe lời
Vơ bèo gạt tép lòng tin mất
“Đại cục” hóa ra…nhỏ thế thôi?

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm



Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019

TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG. Thơ. Lê Trường Hưởng


TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

Tương quan lực lượng trước và nay
Chỉ thấy khác nhau ở chỗ này:
Thời cổ đơn phương mà chiến đấu
Ngày nay Thế giới sát bên ngay
Quân đông vũ khí Tầu hơn hẳn
Người ít giáo gươm Việt chẳng tày
Khẳng định một điều là bất biến:
Dám xâm phạm đến sẽ tan thây!

L.T.H.
Ảnh minh họa sưu tầm


ĐƯỜNG ĐẠI CỔ VIỆT. Văn xuôi. Lê Trường Hưởng

ĐƯỜNG ĐẠI CỒ VIỆT

Đường Đại C Việt hiện nay dài 1.048m, rộng 30m. Bắt đầu từ Ô Cầu Dền-Ngã tư Huế-Bạch Mai-Trần Khát Chân đến Ngã tư Kim Liên-Lê Duẩn-Giải Phóng ( cạnh góc Tây Nam công viên Thống Nhất và Trường Đại học Bách Khoa ); Thuộc Phường Lê Đại Hành, Quận Hai Bà Trưng.
Thời Pháp thuộc, Đường Đại Cồ Việt gồm 3 đoạn đường mang tên số 164, 202, 222 (Voie  N0 164, 202, 222) gộp thành, năm 1945 được đặt tên Đại C Việt*. Những lần đổi tên tiếp sau vẫn giữ nguyên tên này.
 Hồi đó, làng Vân Hồ của tôi có một con đường nhỏ ( nay là phố Vân Hồ 3 ) đi qua trước khu Chùa Càn Đà toàn Tháp là Tháp thông ra Đại Cồ Việt.
Tôi còn nhớ có con Đê đất chạy suốt từ Ô Đống Mác đến Cầu Giấy gọi là Đê La Thành, đoạn qua Đại Cồ Việt và làng Kim Liên có tên đê Bành Lao. Phía nam đê Bành Lao, bên kia đường Đại Cồ Việt là Khu Học Xá Đông Dương liền kề với nghĩa địa Cô La Oa trải rộng từ đường Đại Cồ Việt đến tận làng Đồng Tâm . Phía bắc đê Bành Lao, bên này đường Đại Cồ Việt là Hồ Bẩy Mẫu và làng Vân Hồ ( Phía Tây làng Vân Hồ là phố Bà Triệu chạy từ Bờ Hồ đến Đại Cồ Việt ).
Vào nửa cuối của những năm 40 Thế kỷ trước, Hà Nội đất rộng, người thưa, đường Đại Cồ Việt ở phía Nam được coi là rất xa trung tâm Thành phố, có lẽ vì thế nên người ta “quy hoạch” những thứ không mấy…sạch sẽ ở đây: Một Nghĩa địa Cô La Oa, một bãi rác lớn chạy suốt bên hồ Bảy Mẫu ra ngã tư Kim Liên, một khu Đèn Đỏ sát cạnh bãi rác ( Thời Pháp Mại dâm được coi là một nghề, có giấy phép đàng hoàng ).
Sau năm 1954, ba thứ kể trên biến mất! Thay vì một trường Đại Học Bách Khoa, một Công viên Thống Nhất!
Sau năm 1975 Đường Đại Cồ Việt thay da đổi thịt lần nữa, mười lần to đẹp như hiện nay!
Không hiểu sao “số” tôi gắn bó với đường Đại Cồ Việt đến thế: Nhà ở làng Vân Hồ, rồi ở cuối Bà Triệu, ở cuối Lê Đại Hành…Lúc hết cấp ba lại học trường Đại Học Bách Khoa!
Ngay cả “Nghĩa địa Cô La Oa” tôi cũng có những kỷ niệm thú vị: Lúc đó mới chỉ là một cậu bé thế mà tôi dám đi tắt chéo qua Nghĩa địa đến “Nhà Thương Bạch Mai” đưa cơm cho mẹ tôi ( Anh trên tôi bị Thương hàn rất nặng, mẹ tôi phải đưa anh tôi vào “Nhà thương Bạch Mai” điều trị. Tôi nhận chân đưa cơm tối vì “Thằng này nó gan cóc tía chẳng sợ gì cả” và buổi sáng còn đi học. Các chị tôi đảm nhiệm đưa cơm sáng và trưa. Chị nào cũng hết vía không dám ra khu vực này lúc chiều tối. Vào mùa Đông, lúc tôi đi trời mới chạng vạng, nhưng lúc tôi về trời đã tối hẳn. Nhiều hôm tôi gặp ma trơi
( Lúc đó tôi chưa biết ma trơi là gì )-là những quả cầu nhỏ màu vàng hoặc đỏ nhạt; Tôi cứ đi thì nó đi, tôi đứng lại nó cũng đứng! Tôi chẳng thấy sợ mà lại thấy…khoái! Cứ rập rình ú tim với nó đến khi ra tới đường Đại Cồ Việt mới thôi!
Bây giờ tôi đã chuyển nhà đi xa Đại Cồ Việt đến vài cây số nhưng vẫn nhớ về đường Đại Cồ Việt xưa và nay…

L.T.H. 

Đại Cồ Việt

Ảnh minh họa sưu tầm
Công trình ở hai đầu đường Đại Cồ Việt : Hầm chui Kim Liên và cầu vượt Trần Khát Chân




Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

THƯƠNG MIỀN TRUNG HẠN HÁN. Thơ. Lê Trường Hưởng

Miền Trung hạn hán kéo dài, đập cạn, người khát, ruộng khô

THƯƠNG MIỀN TRUNG HẠN HÁN

Nắng nóng miền Trung kéo thật dài
Bao lần chịu đựng những thiên tai
Ruộng khô đất nẻ mong mưa mãi
Người khát mương trơ đợi nước hoài
Đập cạn đồng hoang đâu thấy lúa
Vườn không nhà trống biết tìm ai
Gồng mình gánh cả ngàn gian khó
Thương biết làm sao…chỉ thở dài!

L.T.H. 


Video minh họa sưu tầm


CẦU NHẬT TÂN. Thơ. Lê Trường Hưởng

CẦU NHẬT TÂN

Năm cửa ô xòe năm cánh hoa
Nhật Tân cầu lớn đẹp hài hòa
Dây văng trông tựa dây đàn mắc
Trụ đỡ nhìn như trụ cổng qua
Gạch nối Thủ Đô cùng Thế Giới
Mạch liền Hà Nội với trời xa
Kết tình Việt Nhật thêm đằm thắm
Gửi tặng Sông Hồng khúc tráng ca

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm




Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

ÔI FACEBOOK! Văn xuôi. Lê Trường Hưởng

ÔI FACEBOOK!

Trên "Trang Thơ Trào Phúng Hà Thành", tôi đã bình luận một bài viết lên án Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta như sau:

“Lươn lẹo dối gian chính bọn Tầu!
Nói đằng làm nẻo chẳng sai đâu
Miệng nam mô bụng bồ…dao nhọn
Thấy lũ quỷ này phải tránh mau!”

Thế mà Facebook nhắn tin cho tôi:
“Bình luận này vi phạm Tiêu chuẩn cộng đồng của chúng tôi về ngôn từ gây thù ghét”
Và họ đã gỡ luôn bình luận này!
Tôi đã “Yêu cầu xem xét” theo mẫu của FB, FB trả lời sẽ cử người xem xét, cuối cùng họ vẫn không thay đổi!
Những Bình luận như của tôi nhan nhản trên FB, thậm chí còn nặng nề hơn, quyết liệt hơn!
Trước việc Trung Quốc ngang nhiên, trắng trợn xâm phạm Chủ quyền Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng và Báo chí trong ngoài nước đều lên án mạnh mẽ ( có cả Báo chí và dư luận Mỹ-quê hương của FB ).
Chẳng lẽ FB lại ủng hộ hành động bắt nạt, côn đồ của Trung Quốc?
Nhân viên “phát hiện” và gỡ bình luận của tôi phải chăng là một người Trung Quốc xấu?
FB trước đây vốn nổi tiếng là trung thực, khách quan nay lại bênh vực cho việc làm sai trái của Trung Quốc mà cả Thế giới đã lên án?
FB vào nước tôi cần phải hiểu rõ con người và Lịch sử chống ngoại xâm của nước tôi!
Thiết nghĩ ông Mark Elliot Zuckerberg cần phải chấn chỉnh ngay những việc như thế này!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm
Ông Mark Elliot Zuckerberg-Chủ tịch Facebook



Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2019

TIẾC THƯƠNG CÁC ANH! Thơ. Lê Trường Hưởng


TIẾC THƯƠNG CÁC ANH!

Các Anh nằm lại chốn sơn khê
Tôi vẫn vẹn nguyên được trở về
Nhớ đến mà lòng đau quặn thắt
Nghĩ suy sao dạ xót buồn tê...
Tuổi xuân dâng hiến vì non nước
Xương máu hy sinh bởi đất quê
Hài cốt bao năm tìm chẳng được
Tiếc thương nước mắt lại tràn trề…

L.T.H.



Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

TRẬN MƯA GIẢI NHIỆT. Thơ.Lê Trường Hưởng


TRẬN MƯA GIẢI NHIỆT

Trận mưa giải nhiệt quý làm sao
Cuồn cuộn mây đen bỗng kéo vào
Bỗng chốc bầu trời che tối sẫm
Đột nhiên tiếng nước đổ ào ào
Nắng thiêu tắt hẳn vui mừng thế
Lửa đốt tàn mau sướng biết bao
Cây cối phố phường như sống lại
Thỏa lòng mong đợi đến cồn cào!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm


Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019

VỚI CHUYÊN GIA NHẬT. Thơ. Lê Trường Hưởng


VỚI CHUYÊN GIA NHẬT

Sông Tô thoát nước thải Hà Thành
Muốn sạch hai bờ cống hóa nhanh
Nhập một dùng chung ô nhiễm nặng
Tách ra riêng biệt mới trong lành
Nhĩ Hà xưa đã thông vào thẳng
Tô Lịch nay toàn chạy quẩn quanh
Tái tạo xem ra ưu việt nhất
Lịch giang chắc sẽ lại tươi xanh…

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm từ Trang "Môi Trường Đô Thị"
1. Bản đồ thành Thăng Long theo Hồng Đức Địa Dư - 1490, với sông Cái bên mặt Đông, sông Tô Lịch mặt Bắc và Tây. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: 36hn.
2. Bản đồ Hà Nội giai đoạn 1428 - 1527 rút từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn. Ghi chú số 1, 2 do chúng tôi thêm vào.




VỊNH CÁI…BỆ TƯỢNG. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở TLHNK)

 VỊNH CÁI…BỆ TƯỢNG! 
 ( Nhân qua Gò Đống Đa )

HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ cơ! 
Hỏi ai Lịch sử...giả lơ mơ?
Phải chăng “mềm dẻo” nên…buông Giáo? 
Có đúng “khôn ngoan” muốn…trở Cờ? 
Cộc lốc cái tên đầy xấc xược! 
Trống không ngôi vị thấy trơ trơ! 
Tầm thường hóa cả vì sao sáng 
Hậu duệ buồn lòng chẳng thể ngơ! 

L.T.H.


Ảnh minh họa sưu tầm



CẢ HAI. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở KNTBM)

CẢ HAI

Vắng đàn ông quạnh nhà
Vắng đàn bà quạnh bếp...

Câu nói người xưa đến muôn đời, muôn kiếp
vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa ban đầu!

Vắng một trong hai, chí ít tạm xa nhau
để một trong hai ngập nỗi buồn cô quạnh

Thiếu hẳn một trong hai là mảnh đời bất hạnh
Lạnh lẽo, cô đơn, ngơ ngẩn một mình

Vẹn toàn cả hai, đời mới thật tươi xanh
Hai là một: thực sự là tổ ấm

Tình sẽ dần nhạt phai chẳng còn sâu đậm
Nếu hai lại là...hai dù chung một mái nhà

Cả hai cùng yêu nhau say đắm, thiết tha
Sẽ trọn cả hai đến bách niên giai lão!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2019

ĐÁNG BUỒN THAY! Thơ. Lê Trường Hưởng

Nước Hồ Tây... cuốn trôi kết quả thí nghiệm công nghệ Nhật ở sông Tô Lịch

ĐÁNG BUỒN THAY!

Người làm kẻ phá tiếp luôn đây!
Kết quả đang chờ xả nước…bay
Thí nghiệm tiến hành không…bỏ sức!
Mồi ngon sợ mất lại…thò tay?
“Quy trình” ngụy biện sao…gân cổ
“Kế hoạch” thanh minh chỉ…cãi chày
Nhật Bản lòng thành nay nỡ phụ
Ô danh Hà Nội đáng buồn thay!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm


ĐÔNG DƯƠNG HỌC XÁ. Văn xuôi. Lê Trường Hưởng (Đăng ở TLHNK)

ĐÔNG DƯƠNG HỌC XÁ

Năm 1962, khi thi đỗ vào trường Đại Học Bách Khoa, chúng tôi mới “Thực mục sở thị” khu Đông Dương Học Xá xưa. Cũng là công trình cuối cùng Chính quyền Pháp xây dựng trước năm 1945.
Hồi đó Phu nhân
Toàn quyền Đông Dương Jean-Decoux đã mở cuộc thi thiết kế và làm Chủ tịch Ban giám khảo. Có 14 Đồ án tham gia. Đồ án thiết kế của các kiến trúc sư Louis Chauchon, Robert GillesMaurice Masson được giải nhất. Đồ án được giải nhất này sau đó được các kiến trúc sư Félix Godard Moncet (Sở Nhà Dân sự) vẽ bản đồ quy hoạch tổng thể và được Toàn quyền Jean-Decoux thông qua và tiến hành xây dựng năm 1941.
Công trình được thiết kế theo phong cách kiến trúc Việt Nam kết hợp kiến trúc hiện đại, cách trang trí nội thất theo phong cách địa phương ở Đông Dương.
Công trình có nhiều hạng mục, nhưng vì một số lý do chỉ có một số hạng mục thi công, trong đó có 4 ngôi nhà chính mang tên A, B, C, D. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I hiện còn lưu giữ một số tài liệu về công trình này, trong đó có: Bản vẽ quy hoạch Khu Học Xá do Kiến trúc sư Cérruti, Chánh Sở Đô thị và Kiến trúc trung ương lập năm 1941...
Trước khi Trường Đại Học Bách Khoa tiếp quản khu này, Công trình chính của Khu Học Xá chỉ thấy 4 ngôi nhà A, B, C, D nằm thiên về phía phố Bạch Mai; Liền kề sau đó là một nghĩa địa lớn mang tên Cô La Oa chạy suốt từ phố Đại Cồ Việt sang Làng Đồng Tâm!
Hoàng thân Xu Pha Na Phu Ma của Vương quốc Lào cũng đã từng học ở đây! ( Chúng tôi được biết điều này khi năm 1963 Bác Hồ đưa ngài Hoàng Thân về thăm Trường cũ ).
Thoạt đầu thấy công trình Đông Dương Học Xá chúng tôi lầm tưởng Công trình do các Kiến Trúc Sư Việt Nam thiết kế vì hình thức Kiến trúc rất Á Đông, rất Việt Nam! Nhưng sau khi đã rõ ngọn ngành càng bái phục tài năng các Kiến trúc sư Pháp!
Nhiều công trình Kiến Trúc của họ để lại ở Hà Nội và trên khắp đất nước chúng ta thực sự là những hình mẫu để nhiều thế hệ Kiến Trúc Sư của ta học tập! 

L.T.H.


( Có tham khảo một số Tài liệu lưu trữ )
Ảnh minh họa sưu tầm
"Đông Dương Học Xá" cũ và ngày nay

VÌ CỚ SAO BUỒN?Thơ. Lê Trường Hưởng ( Đăng ở KNTBM )

VÌ CỚ SAO BUỒN?

Khuôn mặt tươi xinh bỗng trở nên ảm đạm
Như trời trong xanh phủ đám mây u ám

Anh đâu có biết em- vì cớ sao buồn?
Anh đã vô tình để em phải giận hờn:

Một sợi tóc hơi dài vương nơi cổ áo?
Một thoáng nhìn ai khi cùng em đi dạo?

Một vết như son môi mờ nhạt trên vai?
Hay vì một mình em gánh nặng đường dài
luôn trĩu nặng tâm tư vui, buồn xen lẫn?

Hay vì nỗi cô đơn trong đêm dài vô tận
thao thức năm canh mong trời sáng thật mau
để lại thấy bóng hình, để lại được bên nhau
để niềm vui nhân đôi, để nỗi buồn xẻ nửa?

Cho dù vì cớ gì, em chớ nên buồn nữa
Hãy tin ở tình yêu có sức mạnh vô biên
vượt qua mọi khó khăn, trắc trở, ưu phiền

Để gương mặt em lại như hoa tươi thắm
Để tình đôi ta ngày càng thêm sâu đậm
thêm thắm thiết, keo sơn xua hết nỗi buồn

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

GẶP EM. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở KNTBM)

GẶP EM

Hiền hậu, đẹp xinh lại dịu dàng
Dáng đi uyển chuyển giọng oanh vàng
Áo quần giản dị mà thanh lịch
Mộc mạc tự nhiên chẳng điểm trang

Chợt thấy thoáng qua một nét buồn
Mắt huyền thăm thẳm nỗi cô đơn
Trong lòng lắng đọng nhiều u uất?
Biết sẻ cùng ai để nhẹ hơn?

Hồng nhan bạc phận lắm truân chuyên
Đeo đẳng như là lẽ tự nhiên?
Hay luật bù trừ Trời sắp sẵn
Nhưng sao lại cũng vận vào em?

Gặp em chưa hiểu thấu lòng nhau
Mà thấy bâng khuâng bởi tại đâu
Anh ước biến thành sông cuộn chảy
Hoà tan trôi hết những buồn đau!

L.T.H.
 
Ảnh minh họa sưu tầm

CƯỚI CON “ĐẦY TỚ”! Thơ. Lê Trường Hưởng

Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Sóc Trăng tổ chức đám cưới con 3 ngày, 4 tiệc?

CƯỚI CON “ĐẦY TỚ”!

Mấy đời bần cố mới ngồi đây
Của nả đâu ra lắm thế này?
Bốn tiệc ba ngày…ăn xả láng
Trăm mâm nghìn khách…hết ga say
Nguyên hình hiện rõ loài sâu mọt
Trần trụi phô ra loại bọ rầy
Đục khoét tiền dân cho đẫy túi
Cưới con “đầy tớ” thật là hay!

L.T.H.

Ảnh minh họa của Dân Trí
1. Thiệp mời dự tiệc cưới con trai của gia đình bà Hồ Thị Cẩm Đào.
2 và 3. Một số xe biển xanh được cho là đi dự tiệc cưới của con trai bà Đào tổ chức tại nhà riêng.

 



ĐIỂM HẸN. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở TLHNK&KNTBM)

ĐIỂM HẸN

Ta hẹn hò nhau ở chốn này
Hồ Gươm xanh ngắt biếc trời mây
Ngọc Sơn trầm mặc vần thơ đậu
Tháp Bút uy nghi nét chữ bay
Thê Húc vươn mình như chợt tỉnh
Trấn Ba đứng lặng tựa đang say
Giai nhân, tài tử nơi tìm gặp
Mặt nước tình yêu thấy ngập đầy…

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm



Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

ĐIẾU…TRẦN BẮC HÀ. Thơ. Lê Trường Hưởng


ĐIẾU…TRẦN BẮC HÀ

Thôi thế là xong một kiếp người!
Động lòng nhưng nước mắt không rơi!
Tham lam tiền núi ô danh mãi
Ham hố quyền cao tiếng để đời
Quan nhất thời thôi không nhớ nhỉ?
Dân còn vạn đại đã quên rồi?
Chẳng mang gì được khi…chui đất
An ủi để cho con cháu...xơi!

L.T.H.
Ảnh minh họa sưu tầm


ĐỨNG TRƯỚC HOÀNG THÀNH. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở TLHNK&KNTBM)

ĐỨNG TRƯỚC HOÀNG THÀNH
                Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
               Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
                    (Bà Huyện Thanh Quan)
Bâng khuâng đứng trước Hoàng Thành
Dấu xưa cung điện triều đình nơi đây
Vật xưa như muốn tỏ bày
Tổ Tiên oanh liệt dựng xây cơ đồ
Vương triều nhà Lý dời Đô
Rồng vàng rực rỡ đợi chờ bay lên
Ngàn năm Tổ Quốc vững bền
Giang sơn một giải nối liền Bắc-Nam
Bao lần chống giặc ngoại xâm
Bao lần biến cố thăng trầm đổi thay
Nước non vẫn nước non này
Khí thiêng sông núi toả đầy chốn xưa
Thinh không xào xạc gió đưa
Tưởng như Ngự giá cũng vừa đi qua
Quân reo, ngựa hí xa xa
Người xưa đánh giặc bài ca hào hùng
Nghìn năm hào khí Thăng Long
Còn đây dòng máu Lạc Hồng vẻ vang
Hoàng Thành ghi dấu sử vàng
Bồi hồi đứng trước, mơ màng chuyện xưa...

L.T.H.


Ảnh minh họa sưu tầm

ANH ĐÃ VỀ. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở KNTBM)

ANH ĐÃ VỀ


Anh đã về trong khắc khoải chờ mong
Đêm thao thức năm canh vì nhung nhớ
Dáng em dịu dàng, ấm êm từng hơi thở
Trong tim anh, em có biết, có hay?

Men tình yêu anh ngây ngất đắm say
Nâng đôi cánh anh bay qua mê muội
Bao cám dỗ phơi bày ra trần trụi
Cũng lui mau trước sức mạnh tình yêu

Anh đã về đẹp đẽ biết bao nhiêu
Phút thần tiên lại hòa trong nhịp thở
Ta lại bên nhau thỏa lòng mong nhớ
Mây giăng màn che những phút riêng tư

Anh đã về, trăng lại mọc đó ư?
Ánh vàng sáng soi lung linh huyền thoại
Và con sóng lại xô bờ mê mải
Khúc tình yêu còn hát mãi không thôi...

L.T.H.

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019

“ĐẠI CỤC”. Thơ. Lê Trường Hưởng

Ch tch Trung Quc Tp Cn Bình kêu gi Bc Kinh và Hà Ni “nhìn vào đi cc” và đưa quan h hu ngh gia hai nước lên tm cao mi.

“ĐẠI CỤC”

“Đại cục” là Bình muốn…cục to?
Của người thèm khát cứ mong…vồ
“Vành đai” thắt chặt… đôi vòng sắt
“Chín đoạn” thè ra…một Lưỡi Bò
Đẹp mã mà sao thành…bụng hẹp
Thông minh lại thấy hóa…đầu to
Nhận xằng chiếm bậy còn trâng tráo
“Bốn tốt” quăng luôn xuống…biển cho!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm


HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ. Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở KNTBM&TLHNK))

HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ

Hai người đàn bà
một già, một trẻ
Giành nhau một người đàn ông
Cuộc đấu mất còn đến thế!
Người già
sợ mất con trai
Người trẻ
sợ xuân phí hoài
Người già cho con lấy vợ
Lại không muốn...
con thuộc về ai
Người già
ghen tuông phi lý
Bắt con nằm ở phòng ngoài
Cái giường trơ ra như thế...
Người trẻ
sức xuân tràn đầy
Rình cơ hội
là chiếm đoạt
ngay
Người đàn ông như bung xung
Ngả nghiêng cả về hai phía
lùng nhùng
Hai người đàn bà hận nhau
Không dùng dao
cũng không dùng kiếm
Mà đã làm nhau thật đau
Người đàn ông
nhùng nhằng chữ "hiếu"
Hóa ra lại thành chữ..."thiếu":
bản lĩnh đàn ông
Thế rồi ngày thêm già néo
đứt tung!
Hai người đàn bà
một người đàn ông
Tất cả trắng tay mất hết
Mất con
mất chồng
mất mẹ
mất không!


L.T.H. 


Ảnh minh họa sưu tầm

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

VỞ CŨ…DIỄN LẠI. Thơ. Lê Trường Hưởng

Bộ Ngoại giao Việt Nam nói về tình hình gần đây ở Biển Đông
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói về tình hình Biển Đông


VỞ CŨ…DIỄN LẠI 

Vở đã cũ mèm diễn lại đây
Lý do “tập trận” vẫn đem bầy
Tầu to Hạm lớn ra khua khoắng
Tướng mạnh binh hùng đến múa may
Dọa trẻ trẻ đâu kinh…Ngoáo ộp
Hù người người chẳng sợ…Ma ngày
Ngàn xưa bài học còn nguyên vẹn
Lấy thịt đè…Chông sẽ nát thây!

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm 

EM LÀ AI? EM ĐANG Ở ĐÂU? Thơ. Lê Trường Hưởng (Đăng ở KNTBM)

EM LÀ AI? EM ĐANG Ở ĐÂU?

Em lấp ló một vì sao nho nhỏ
Vụt lóe lên lại chìm khuất đâu rồi?
Giữa màn đêm, sao như vừng rắc đầy trời
Tìm em ở đâu, giữa hằng hà sa số?

Ngược sáng mặt trời, hình em không thấy rõ
Trên đỉnh núi cao xanh mà vẫn ẩn màn đêm
Văng vẳng đâu đây tiếng chim yếu ớt
rên
chạm bụi cây-đời và cái gai-người làm cho thương tổn

Vũ trụ bao la, mênh mang, hỗn độn
Em dấu mình như tránh một nỗi đau
Trắc ẩn trong lòng em đã chôn sâu
Bước lại với đời thấy gì trong cuộc sống?

Con tim bỗng trào dâng bao niềm xúc động
Lại lặng lẽ lui về vì sợ vấp phải nỗi đau
Con chim bị thương sẽ hồi lại được mau
Khi có bàn tay ấm êm chăm sóc
Ai oán tiếng chim kêu lên từng lúc
Cứ yếu ớt dần, có qua được cơn đau?
Em là ai? em đang ở nơi đâu?

L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

BÚT PHÊ VÀ TIN NHẮN…Thơ. Lê Trường Hưởng

Ban Bí thư kỷ luật nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường
Tin nhắn của Thứ trưởng là cá nhân, bút phê không phải là căn cứ xét thầu

Năm 2015 ngài Thứ Trưởng đã có vụ lùm xùm "Bút phê" nhưng hồi đó
Bộ Trưởng Thăng bảo "Đúng qui trình" thế là...chìm xuồng! 


BÚT PHÊ VÀ TIN NHẮN… 

Thứ trưởng Hồng Trường đã…bút phê 
Những dòng tin nhắn thấy…hơi ghê 
Mỹ kim Đô chuyển lần liên tiếp 
Tiền Việt Nam đưa lượt cận kề 
Chẳng trúng phong bì cho nhận lại 
Không vào bao kín được đem về 
Thực hư sẽ có trời soi xét 
Thù địch? Kẻ gian? khiếp mọi bề! 

 L.T.H.

Ảnh minh họa sưu tầm
1. Thứ trưởng GTVT Nguyễn Hồng Trường
2. Tin nhắn


CHỮ VIỆT CỔ - NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC! Văn xuôi. Lê Đình Lai (Đăng ở TLHNK)

Xin giới thiệu bài viết của Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ Lê Đình Lai:

CHỮ VIỆT CỔ - NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC !

Lê Đình Lai
Lâu nay, một bộ phận không nhỏ dân ta cho rằng dân tộc ta k
hông có chữ. Chữ mà chúng ta dùng trước kia là do người Tàu mang lại. Chữ quốc ngữ mà ta đang dùng hiện nay là do người Tây mang lại...
Không phải! Tổ tiên ta từ xa xưa đã có chữ viết riêng.
Xin nhớ cho rằng loại chữ vuông tượng hình kia được Sĩ Nhiếp đưa vào, bắt dân ta học từ năm 187 sau CN, k
hông cho dân ta học chữ vốn có của tổ tiên để lại từ trước đó rất lâu. Ở thôn Lỗ Khê, ( thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh-Hà Nội ngày nay) còn có di tích gò Bút-Nghiên, nơi chôn dấu để lưu giữ bút và nghiên của thầy giáo Điện Hưng mở trường dạy học ở vùng này từ năm 290 trước CN, thời Hùng Duệ Vương với lời truyền lay động lòng người: "Phải giữ lấy bút và nghiên, nếu để mất, con cháu làng sẽ sa vào vòng dốt nát"
Cũng xin được nhắc lại rằng, chữ theo hệ ngữ Latin mà ta đang dùng hiện nay -được gọi là chữ quốc ngữ- cũng chỉ mới hoàn thiện dần, phổ cập, thịnh hành từ đầu thế kỷ XX thôi, mặc dù đã được "người Tây" (các lái buôn, giáo sĩ,cha cố truyền đạo manh nha làm từ những năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVll.
Chúng ta vẫn luôn biết ơn, không phủ nhận công lao của các nhà truyền đạo phương Tây trong việc xây dựng bộ chữ theo hệ ngữ Latin cho dân tộc ta. Nhưng ta cũng cần biết bản chất của việc "Latin hóa" này là gì để có nhận thức đúng đắn về việc này.
Xin hãy đọc lại một đoạn hồi ký của Alexandre de Rhodes: Người thầy giáo của tôi là một thiếu niên bản sứ mười ba tuổi. Cậu dậy tôi tiếng và chữ bản địa. Chữ cậu dạy tôi không phải là thứ chữ vuông.Trong vòng ba tuần lễ, tôi đã học hết đươc các chữ, nắm hết được cung bậc, âm sắc tiếng nói bản địa của cậu."
Ta có thể hình dung: "thầy nhỏ" dạy "trò lớn" chữ và tiếng bản địa. "Trò lớn" dạy "thầy nhỏ" tiếng, chữ Latin và những điều cần biết, cần làm khi hành lễ... Mối quan hệ tương tác ấy giúp ích rất nhiều cho việc "Latin hóa" bộ chữ bản địa, đẩy nhanh việc xây dựng bộ chữ của người Việt theo mẫu tự Latin. Đến năm 1651 cuốn tự điển Việt- Bồ- La được xuất bản lần đầu ở Roma với tên tác giả là Alexandre de Rhodes, trên cơ sở tiếp thu những thành quả về mặt này của các giáo sĩ đi trước ông nữa.
Như vậy, bản chất của bộ chữ quốc ngữ là LATIN HÓA BỘ CHỮ CÓ SẴN Ở BẢN ĐỊA.
Chúng tôi nghĩ, rất may mắn cho A.Rhodes là gặp được chữ và tiếng nói của ta là đơn âm, tượng thanh. Và cũng rất may mắn cho dân tộc ta là gặp được những giáo sĩ nhiệt tâm, năng nổ, bất kể động cơ, mục đích của họ là gì. Các nước xung quanh ta, nước nào cũng muốn Latin hóa bộ chữ của họ, mặc dù họ đầu tư khá nhiều tiền của, thời gian nhưng cũng không làm được vì ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ tượng hình...
Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền - ngưòi đã danh gần 60 năm của cuộc đời hơn 80 tuổi của mình đã sưu tầm, giải mã thành công bộ chữ cổ của tổ tiên Lạc Việt đã dùng hình tượng để chỉ bộ chữ quốc ngữ như sau: Đây là ông già Viêt Nam trút bỏ áo the khăn lượt để khoác lên mình bộ
Com lê Ca vát chứ không phải là ông Tây nhập cảnh.
Việc tổ tiên ta từ xa xưa có chữ viết riêng, được ngay các nhà làm sử của kẻ đô hộ công nhận.
Các sách cổ sử Trung Hoa như Thuyết văn giải tự, Thông giám cương mục... đều ghi sự kiện Hùng Quốc Vương (2345 trước CN) có biếu tặng vua Nghiêu một con rùa lớn được gọi là Thần quy thiên tuế, trên lưng có khắc chữ khoa đẩu ghi rõ sự việc từ khai thiên lập địa đến ngày nay (đời Hùng Quốc Vương). Việc vị vua đầu tiên của dòng họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương làm chủ phương Nam... việc Sùng Lãm (tức Lạc Long Quân) với sự tích bọc trăm trứng thủy tổ của Bách Việt...
Xin lưu ý một điều: văn tự ghi khắc trên mai rùa thời Hùng Quốc Vương đã là thứ văn tự hoàn chỉnh, soạn thảo thành văn bản được rồi thì gần một ngàn năm sau, Thương Hiệt mới dựa vào những vết chân chim đậu trên cát để xây dựng nên những chữ đầu tiên, làm cơ sở cho chữ Tầu cổ sau này...
Gần đây, báo cáo khảo cổ học của T
rung Quốc ngày 20/2/2012 công bố: Văn bản chữ cổ trên bình gốm ở di chỉ Bán Pha ll có tuổi 12.000 năm là chữ của người Lạc Việt. Điều này phù hợp với nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới- trong đó không ít người là người Mỹ gốc Hoa : khoảng hơn 12.000 năm trước các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở đồng bằng Trung Hoa, từ phía nam sông Dương Tử trở lại. Thời gian này, tộc người Hoa Hạ -thủy tổ của người Trung Hoa cổ chưa ra đời
Năm 1923, nhà khảo cổ học người Pháp- bà Madelene Colani khai quật di chỉ khảo cổ ở chân núi Lam gan-Hòa Bình (có tuổi 10.000 năm) phát hiện nhiều công cụ đá, dấu tích động thực vật đã được thuần dưỡng từ 10.000 năm trước... Đặc biệt là có những đĩa gốm, nung ở nhiệt độ thấp, có khắc chữ ...
Hội nghị quốc tế về thời tiền sử ở vùng viễn đông do Viễn Đông bác cổ Đông Dương tổ chức ở Hà Nội năm 1932 đã làm đảo lộn nhận thức của giới học giả thế giới: Không phải là Lưỡng Hà mà Hòa Bình-VN mới là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên của thế giới. Văn hóa Hòa Bình của Việt Nam có trước Lưỡng Hà khoảng 3.000 năm tuổi...
Dẫn ra với các bạn một phần thông tin như vậy để thấy quá khứ của dân tộc ta, tổ tiên ta huy hoàng lắm. Về mặt ngôn ngữ, văn tự chúng ta có thể tự hào rằng tổ tiên Bách Việt chúng ta là một trong số tộc người đầu tiên sáng tạo ra chữ viết tượng thanh cho nhân loại.
Xin dùng bức ảnh chụp bài thơ CHỮ CỦA TỔ TIÊN được viết bằng chữ Việt cổ và chữ quốc ngữ để kết thúc
bài viết này:


L.Đ.L
Ảnh minh họa từ nguồn Đõ Văn Xuyền-Nhà nghiên cứu chữ Việt cổ (Đã qua đời)
Ảnh 1: Lê Đình Lai-Nhà nghiên cứu chữ Việt cổ 
Ảnh 2: Tam vị Thánh mẫu thờ ở động Tiên Phi - Hòa Bình . Bà ngồi giữa là Bà Hương Vân Cái Bồ tát tức Hồng Đăng Ngàn (tên thật là Đỗ Thị Đoan Trang. Mộ bà hiện nay ở Bala-Bông đỏ, trong khuôn viên lăng mộ đã được dòng họ Đỗ tôn tạo) 
Ảnh 3: Các thiếu nữ của cộng đồng MinangKabau (miền Tây Sumatra- Indonesia). Đây là hậu duệ của những người Việt "di tản" khỏi đất nước từ sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị Mã Viện đàn áp. Họ lánh sang đây để tìm cơ hội phục quốc. Từ hơn 500 người nay đã phát triẻn thành gần 4,5 triệu người. Họ mang theo 150 cuốn vở ghi chép những điều vêdf gia phả, cách chữa bệnh... Hiện nay Bảo tàng quốc gia Indo sưu tầm đươc 40 cuốn. Chữ của những cuốn vở này hoàn toàn là chữ Việt cổ thời Hùng Vương.